[ad_1]
Chú Lăng Nghiêm (còn gọi là Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm ) là một thần chú trong Phật giáo Đại Thừa có uy lực rất lớn thường được dùng để trừ tà ma và loại bỏ năng lượng tiêu cực. Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm cao thâm vi diệu, nó còn được gọi là “Vương miện của Đức Phật”, thần chú mạnh mẽ đến mức không có chỗ nào trong không gian hoặc toàn bộ Pháp giới mà không bị ngập bởi ánh sáng tốt đẹp của thần chú. Hòa thượng Tuyên Hóa giảng “Nếu trên thế gian này, không còn người nào tụng Chú Lăng Nghiêm, thì Ma Vương sẽ xuất hiện. Nếu còn một người trì tụng, thì thiên ma Ba Tuần không dám xuất hiện”
Nam-Mô-Lăng-Nghiêm Hội-Thượng Phật Bồ Tát ( 3 lần )
Diệu trạm tổng trì bất động tôn,
Thủ-Lăng-Nghiêm-Vương thế hi hữu,
Tiêu Ngã ức kiếp điên-đảo tưởng.
Bất lịch tăng-kỳ hoạch pháp thân,
Nguyện kim đắc quả thành bảo-vương,
Hườn độ như thị hằng sa chúng,
Tương thử thâm tâm phụng trần sát,
Thị tắc danh vị báo Phật ân:
Phục thỉnh Thế-Tôn vị chứng minh,
Ngũ-trược ác-thế thệ tiên nhập,
Như nhứt chúng sanh vị thành Phật,
Chung bất ư thử thủ nê-hoàn.
Đại –hùng đại -lực đại -từ-bi,
Hi cánh thẩm trừ vi-tế hoặc,
Linh ngã tảo đăng vô -thượng giác,
Ư thập phương giới tọa đạo tràng ;
Thuấn nhã đa tánh khả tiêu vong,
Thước –ca –ra tâm vô động chuyển.
Nam-mô thường-trụ thập-phương Phật.
Nam-mô thường-trụ thập-phương Pháp.
Nam-mô thường-trụ thập-phương Tăng.
Nam-mô Thích-Ca Mâu-Ni Phật.
Nam-mô Phật Đảnh Thủ-Lăng-Nghiêm.
Nam-mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
Nam-mô Kim-Cang-Tạng Bồ-Tát.
Nhĩ thời Thế-Tôn,
Tùng nhục-kế trung,
Dõng bá bảo-quang,
Quang trung dõng xuất ,
Thiên diệp bảo liên,
Hữu hóa Như-Lai,
Tọa bảo hoa trung,
Đảnh phóng thập đạo,
Bá bảo quang-minh,
Nhứt nhứt quang-minh,
Giai biến thị hiện,
Thập hằng hà sa,
Kim-Cang mật tích,
Kình sơn trì sử,
Biến hư-không giới,
Đại chúng ngưỡng quan,
Ủy ái kiêm bảo,
Cầu Phật ai hựu,
Nhứt tâm thính Phật,
Vô-kiến đảnh tướng ,
Phóng quang như Lai,
Tuyên thuyết thần chú:
Đệ Nhất
01. Nam-mô tát đát tha
02. Tô già đa da
03. A ra ha đế
04. Tam-miệu tam bồ đà tỏa
05. Nam mô tát đát tha
06. Phật đà cu tri sắc ni sam
07. Nam-mô tát bà
08. Bột đà bột địa
09. Tát đa bệ tệ
10. Nam-mô tát đa nẩm
11. Tam-miệu tam bồ đà
12. Cu tri nẩm
13. Ta xá ra bà ca
14. Tăng già nẩm
15. Nam-mô lô kê A-La-Hán đa nẩm.
16. Nam-mô tô lô đa ba na nẩm.
17. Nam-mô ta yết rị đà dà di nẩm.
18. Nam-mô lô kê tam-miệu dà đa nẩm.
19. Tam-miệu dà ba ra
20. Ðể ba đa na nẩm.
21. Nam-mô đề bà ly sắc nỏa.
22. Nam-mô tất đà da
23. Tỳ địa da
24. Ðà ra ly sắc nỏa.
25. Xá ba noa
26. Yết ra ha
27. Ta ha ta ra ma tha nẩm
28. Nam-mô bạt ra ha ma ni
29. Nam-mô nhơn dà ra da
30. Nam-mô bà dà bà đế
31. Lô đà ra da.
32. Ô ma bát đế
33. Ta hê dạ da.
34. Nam-mô bà dà bà đế
35. Na ra dả
36. Noa da
37. Bàn dá ma ha tam mộ đà da
38. Nam-mô tất yết rị đa da
39. Nam-mô bà dà bà đế
40. Ma ha ca ra da
41. Ðịa rị bác lặc na
42. Dà ra tỳ đà ra
43. Ba noa ca ra da.
44. A địa mục đế
45. Thi ma xá na nê
46. Bà tất nê
47. Ma đát rị dà noa
48. Nam-mô tất yết rị đa da
49. Nam-mô bà dà bà đế
50. Ða tha dà đa câu ra da
51. Nam-mô bát đầu ma câu ra da.
52. Nam-mô bạc xà ra câu ra da.
53. Nam-mô ma ni câu ra da
54. Nam-mô dà xà câu ra da
55. Nam-mô bà dà bà đế
56. Ðế rị trà
57. Du ra tây na.
58. Ba ra ha ra noa ra xà da
59. Ða tha dà đa da
60. Nam-mô bà dà bà đế
61. Nam-mô A di đa bà da
62. Ða tha dà đa da
63. A ra ha đế.
64. Tam-miệu tam bồ đà da
65. Nam-mô bà dà bà đế
66. A sô bệ da
67. Ða tha dà đa da
68. A ra ha đế
69. Tam-miệu tam bồ đà da
70. Nam-mô bà dà bà đế
71. Bệ xa xà da
72. Câu lô phệ trụ rị da
73. Bác ra bà ra xà da
74. Ða tha dà đa da.
75. Nam-mô bà dà bà đế
76. Tam bổ sư bí đa
77. Tát lân nại ra lặc xà da
78. Ða tha dà đa da
79. A ra ha đế
80. Tam-miệu tam bồ đà da
81. Nam-mô bà dà bà đế
82. Xá kê dã mẫu na duệ
83. Ða tha dà đa da
84. A ra ha đế
85. Tam-miệu tam bồ đà da
86. Nam-mô bà dà bà đế
87. Lặc đát na kê đô ra xà da
88. Ða tha dà đa da
89. A ra ha đế
90. Tam-miệu tam bồ đà da
91. Ðế biều
92. Nam-mô tát yết rị đa
93. ế đàm bà dà bà đa
94. Tát đác tha dà đô sắc ni sam
95. Tát đác đa bát đác lam
96. Nam-mô a bà ra thị đam
97. Bác ra đế
98. Dương kỳ ra
99. Tát ra bà
100. Bộ đa yết ra ha
101. Ni yết ra ha
102. Yết ca ra ha ni
103. Bạt ra bí địa da
104. Sất đà nể
105. A ca ra
106. Mật rị trụ
107. Bát rị đác ra da
108. Nảnh yết rị
109. Tát ra bà
110. Bàn đà na
111. Mục xoa ni
112. Tát ra bà
113. Ðột sắc tra
114. Ðột tất phạp
115. Bát na nể
116. Phạt ra ni
117. Giả đô ra
118. Thất đế nẩm
119. Yết ra ha
120. Ta ha tát ra nhã xà
121. Tỳ đa băng ta na yết rị
122. A sắc tra băng xá đế nẩm
123. Na xoa sát đác ra nhã xà
124. Ba ra tát đà na yết rị
125. A sắc tra nẩm
126. Ma ha yết ra ha nhã xà
127. Tỳ đa băng tát na yết rị
128. Tát bà xá đô lô
129. Nể bà ra nhã xà
130. Hô lam đột tất phạp
131. Nan giá na xá ni
132. Bí sa xá
133. Tất đác ra
134. A kiết ni
135. Ô đà ca ra nhã xà
136. A bát ra thị đa câu ra
137. Ma ha bác ra chiến trì
138. Ma ha điệp đa
139. Ma ha đế xà
140 Ma ha thuế đa xà bà ra
141. Ma ha bạt ra bàn đà ra
142. Bà tất nể
143. A rị da đa ra
144. Tỳ rị câu tri
145. Thệ bà tỳ xà da
146. Bạt xà ra ma lễ để
147. Tỳ xá lô đa
148. Bột đằng dõng ca
149. Bạt xà ra chế hắt na a giá
150. Ma ra chế bà
151. Bát ra chất đa
152. Bạt xà ra thiện trì
153. Tỳ xá ra giá
154. Phiến đa xá
155. Bệ để bà
156. Bổ thị đa
157. Tô ma lô ba
158. Ma ha thuế đa
159. A rị da đa ra
160. Ma ha bà ra a bác ra
161. Bạt xà ra thương yết ra chế bà
162. Bạt xà ra câu ma rị
163. Câu lam đà rị
164. Bạt xà ra hắt tát đa giá
165. Tỳ địa da
166. Kiền dá na
167. Ma rị ca
168. Khuất tô mẫu
169. Bà yết ra đá na
170. Bệ lô giá na
171. Câu rị da
172. Dạ ra thố
173. Sắc ni sam
174. Tỳ chiếc lam bà ma ni giá.
175. Bạt xà ra ca na ca ba ra bà.
176. Lồ xà na
177. Bạt xà ra đốn trỉ giá
178. Thuế đa giá
179. Ca ma ra
180. Sát sa thi
181. Ba ra bà.
182. ế đế di đế
183. Mẫu đà ra
184. Yết noa.
185. Ta bệ ra sám
186. Quật phạm đô
187. ấn thố na mạ mạ tỏa.
Ðệ Nhị
188. Ô Hồng
189. Rị sắc yết noa
190. Bác lặc xá tất đa
191. Tát đác tha
192. Già đô sắc ni sam
193. Hổ hồng đô lô ung
194. Chiêm bà na
195. Hổ hồng đô lô ung
196. Tất đam bà na
197. Hổ hồng đô lô ung
198. Ba ra sắc địa da
199. Tam bác xoa
200. Noa yết ra
201. Hổ hồng đô lô ung
202. Tát bà dược xoa
203. Hắt ra sát ta
204. Yết ra ha nhã xà
205. Tỳ đằng băng tát na yết ra
206. Hổ hồng đô lô ung
207. Giả đô ra
208. Thi để nẩm
209. Yết ra ha
210. Ta ha tát ra nẩm
211. Tỳ đằng băng tát na ra
212. Hổ hồng đô lô ung
213. Ra xoa
214. Bà già phạm
215. Tát đác tha
216. Già đô sắc ni sam
217. Ba ra điểm
218. Xà kiết rị
219. Ma ha ta ha tát ra
220. Bột thọ ta ha tát ra
221. Thất rị sa
222. Câu tri ta ha tát nê
223. Ðế lệ a tệ đề thị bà rị đa
224. Tra tra anh ca
225. Ma ha bạt xà lô đà ra
226. Ðế rị bồ bà na
227. Man trà ra
228. Ô hồng
229. Ta tất đế
230. Bạt bà đô
231. Mạ mạ
232. ấn thố na mạ mạ tỏa.
Ðệ Tam
233. Ra xà bà dạ
234. Chủ ra bạt dạ
235. A kỳ ni bà dạ
236. Ô đà ca bà dạ
237. Tỳ xa bà dạ
238. Xá tát đa ra bà dạ
239. Bà ra chước yết ra bà dạ
240. Ðột sắc xoa bà dạ
241. A xá nể bà dạ
242. A ca ra
243. Mật rị trụ bà dạ
244. Ðà ra nị bộ di kiếm
245. Ba già ba đà bà dạ
246. Ô ra ca bà đa bà dạ
247. Lặc xà đàn trà bà dạ
248. Na dà bà dạ
249. Tỳ điều đát bà dạ
250. Tô ba ra noa bà dạ
251. Dược xoa yết ra ha
252. Ra xoa tư yết ra ha
253. Tất rị đa yết ra ha
254. Tỳ xá giá yết ra ha
255. Bô đa yết ra ha
256. Cưu bàn trà yết ra ha
257. Bổ đơn na yết ra ha
258. Ca tra bổ đơn na yết ra ha
259. Tất kiền độ yết ra ha
260. A bá tất ma ra yết ra ha
261. Ô đàn ma đà yết ra ha
262. Xa dạ yết ra ha
263. Hê rị bà đế yết ra ha
264. Xả đa ha rị nẩm
265. Yết bà ha rị nẩm
266. Lô địa ra ha rị nẩm
267. Mang ta ha rị nẩm
268. Mê đà ha rị nẩm
269. Ma xà ha rị nẩm
270. Xà đa ha rị nữ
271. Thị tỷ đa ha rị nẩm
272. Tỳ đa ha rị nẩm
273. Bà đa ha rị nẩm
274. A du giá ha rị nữ
275. Chất đa ha rị nữ
276. Ðế sam tát bệ sam
277. Tát bà yết ra ha nẩm
278. Tỳ đà dạ xà
279. Sân đà dạ di
280. Kê ra dạ di
281. Ba rị bạt ra giả ca
282. Hất rị đởm
283. Tỳ đà dạ xà
284. Sân đà dạ di
285. Kê ra dạ di
286. Trà diễn ni
287. Hất rị đởm
288. Tỳ đà dạ xà
289. Sân đà dạ di
290. Kê ra dạ di
291. Ma ha bát du bát đác dạ
292. Lô đà ra
293. Hất rị đởm
294. Tỳ đà dạ xà
295. Sân đà dạ di
296. Kê ra dạ di
297. Na ra dạ noa
298. Hất rị đởm
299. Tỳ đà dạ xà
300. Sân đà dạ di
301. Kê ra dạ di
302. Ðát đỏa dà lô trà tây
303. Hất rị đởm
304. Tỳ đà dạ xà
305. Sân đà dạ di
306. Kê ra dạ di
307. Ma ha ca ra
308. Ma đác rị già noa
309. Hất rị đởm
310. Tỳ đà dạ xà
311. Sân đà dạ di
312. Kê ra dạ di
313. Ca ba rị ca
314. Hất rị đởm
315. Tỳ đà dạ xà
316. Sân đà dạ di.
317. Kê ra dạ di
318. Xà dạ yết ra
319. Ma độ yết ra
320. Tát bà ra tha ta đạt na
321. Hất rị đởm
322. Tỳ đà dạ xà
323. Sân dà dạ di
324. Kê ra dạ di
325. Giả đốt ra
326. Bà kỳ nể
327. Hất rị đởm
328. Tỳ đà dạ xà
329. Sân đà dạ di
330. Kê ra dạ di
331. Tỳ rị dương hất rị tri
332. Nan đà kê sa ra
333. Dà noa bác đế
334. Sách hê dạ
335. Hất rị đởm
336. Tỳ đà dạ xà
337. Sân đà dạ di
338. Kê ra dạ di
339. Na yết na xá ra bà noa
340. Hất rị đởm
341. Tỳ đà dạ xà
342. Sân đà dạ di
343. Kê ra dạ di
344. A-la-hán
345. Hất rị đởm
346. Tỳ đà dạ xà
347. Sân đà dạ di
348. Kê ra dạ di
349. Tỳ đa ra dà
350. Hất rị đởm
351. Tỳ đà dạ xà
352. Sân đà dạ di
353. Kê ra dạ di
354. Bạt xà ra ba nể
355. Câu hê dạ câu hê dạ
356. Ca địa bát đế
357. Hất rị đởm
358. Tỳ đà dạ xà
359. Sân đà dạ di
360. Kê ra dạ di
361. Ra xoa vỏng
362. Bà dà phạm
363. ấn thố na mạ mạ tỏa
Ðệ Tứ
364. Bà dà phạm
365. Tát đác đa bát đác ra
366. Nam-mô tý đô đế
367. A tất đa na ra lặc ca
368. Ba ra bà
369. Tất phổ tra
370. Tỳ ca tát đác đa bát đế rị
371. Thập Phật ra thập Phật ra
372. Ðà ra đà ra
373. Tần đà ra tần đà ra
374. Sân đà sân đà
375. Hổ hồng hổ hồng.
376. Phấn tra phấn tra phấn tra phấn tra phấn tra.
377. Ta ha
378. Hê hê phấn
379. A mâu ca da phấn
380. A ba ra đề ha da phấn
381. Ba ra bà ra đà phấn
382. A tố ra
383. Tỳ đà ra
384. Ba ca phấn
385. Tát bà đề bệ tệ phấn
386. Tát bà na dà tệ phấn
387. Tát bà dược xoa tệ phấn
388. Tát bà kiền thát bà tệ phấn
389. Tát bà bổ đơn na tệ phấn
390. Ca tra bổ đơn na tệ phấn
391. Tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn.
392. Tát bà đột sáp tỷ lê
393. Hất sắc đế tệ phấn
394. Tát bà thập bà lê tệ phấn
395. Tát bà a bá tất ma lê tệ phấn
396. Tát bà xá ra bà noa tệ phấn.
397. Tát bà địa đế kê tệ phấn
398. Tát bà đát ma đà kê tệ phấn
399. Tát bà tệ đà da
400. Ra thệ giá lê tệ phấn
401. Xà dạ yết ra
402. Ma độ yết ra
403. Tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn.
404. Tỳ địa dạ
405. Giá lê tệ phấn
406. Giả đô ra
407. Phược kỳ nể tệ phấn
408. Bạt xà ra
409. Câu ma rị;
410. Tỳ đà dạ
411. La thệ tệ phấn
412. Ma ha ba ra đinh dương
413. Xoa kỳ rị tệ phấn
414. Bạt xà ra thương yết ra dạ
415. Ba ra trượng kỳ ra xà da phấn
416. Ma ha ca ra dạ
417. Ma ha mạt đát rị ca noa
418. Nam-mô ta yết rị đa da phấn.
419. Tỷ sắc noa tỳ duệ phấn
420. Bột ra ha mâu ni duệ phấn
421. A kỳ ni duệ phấn
422. Ma ha yết rị duệ phấn
423. yết ra đàn tri duệ phấn
424. Miệc đát rị duệ phấn
425. Lao đát rị duệ phấn
426. Giá văn trà duệ phấn
427. Yết la ra đác rị duệ phấn.
428. Ca bát rị duệ phấn
429. A địa mục chất đa
430. Ca thi ma xá na
431. Bà tư nể duệ phấn
432. Diễn kiết chất
433. Tát đỏa bà tỏa
434. Mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.
Ðệ Ngũ
435. Ðột sắc tra chất đa
436. A mạt đác rị chất đa
437. Ô xà ha ra
438. Dà ba ha ra
439. Lô địa ra ha ra
440. Ta bà ha ra
441. Ma xà ha ra
442. Xà đa ha ra
443. Thị tỉ đa ha ra
444. Bạt lược dạ ha ra
445. Kiền đà ha ra
446. Bố sữ ba ha ra
447. Phả ra ha ra
448. Bà tả ha ra
449. Bát ba chất đa
450. Ðột sắc tra chất đa.
451. Lao đà ra chất đa
452. Dược xoa yết ra ha
453. Ra sát ta yết ra ha
454. Bế lệ đa yết ra ha
455. Tỳ xá giá yết ra ha
456. Bộ đa yết ra ha
457. Cưu bàn trà yết ra ha
458. Tất kiền đà yết ra ha
459. Ô đát ma đà yết ra ha
460. Xa dạ yết ra ha
461. A bá tất ma ra yết ra ha.
462. Trạch khê cách
463. Trà kỳ ni yết ra ha
464. Rị Phật đế yết ra ha
465. Xà di ca yết ra ha
466. Xá câu ni yết ra ha
467. Lao đà ra
468. Nan địa ca yết ra ha
469. A lam bà yết ra ha
470. Kiền độ ba ni yết ra ha
471. Thập phạt ra
472. Yên ca hê ca
473. Trị đế dược ca
474. Ðát lệ đế dược ca
475. Giả đột thác ca
476. Ni đề thập phạt ra
477. Tỉ sam ma thập phạt ra
478. Bạt để ca
479. Tỷ để ca
480. Thất lệ sắc mật ca
481. Ta nể bát để ca
482. Tát bà thập phạt ra
483. Thất lô kiết đế
484. Mạt đà bệ đạt lô chế kiếm
485. A ỷ lô kiềm
486. Mục khê lô kiềm
487. Yết rị đột lô kiềm
488. Yết ra ha
489. Yết lam yết noa du lam
490. Ðản đa du lam
491. Hất rị dạ du lam
492. Mạt mạ du lam
493. Bạt rị thất bà du lam
494. Tỷ lật sắc tra du lam
495. Ô đà ra du lam
496. Yết tri du lam
497. Bạt tất đế du lam
498. Ô lô du lam
499. Thường dà du lam
500. Hắc tất đa du lam
501. Bạt đà du lam
502. Ta phòng án dà
503. Bát ra trượng dà du lam
504. Bộ đa tỷ đa trà
505. Trà kỳ ni
506. Thập bà ra
507. Ðà đột lô ca
508. Kiến đốt lô kiết tri
509. Bà lộ đa tỳ
510. Tát bát lô
511. Ha lăng già
512. Du sa đát ra
513. Ta na yết ra
514. Tỳ sa dụ ca
515. A kỳ ni
516. Ô đà ca
517. Mạt ra bệ ra
518. Kiến đa ra
519. A ca ra
520. Mật rị đốt
521. Ðát liểm bộ ca
522. Ðịa lật lặc tra
523. Tỷ rị sắc chất ca
524. Tát bà na câu ra
525. Tứ dẫn dà tệ
526. Yết ra rị dược xoa
527. Ðác ra sô
528. Mạt ra thị
529. Phệ đế sam
530. Ta bệ sam
531. Tất đát đa bát đác ra
532. Ma ha bạt xà lô
533. Sắc ni sam
534. Ma ha bát lặc trượng kỳ lam
535. Dạ ba đột đà
536. Xá dụ xà na
537. Biện đát lệ noa
538. Tỳ đà da
539. Bàn đàm ca lô di
540. Ðế thù
541. Bàn đàm ca lô di
542. Bát ra tỳ đà
543. Bàn đàm ca lô di
544. Ðát điệt tha
545. Án
546. A na lệ
547. Tỳ xá đề
548. Bệ ra
549. Bạt xà ra
550. Ðà rị
551. Bàn đà bàn đà nể
552. Bạt xà ra bán ni phấn
553. Hổ hồng đô lô ung phấn
554. Ta bà ha.
Thầy Thích Trí Thoát hướng dẫn trì tụng Chú Lăng Nghiêm (Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm)
Công Năng Thần Chú Lăng Nghiêm
Công Năng Thần Chú Lăng Nghiêm Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm vi diệu không thể nghĩ bàn. Thần chú nầy hay hàng phục thiên ma và chế ngự ngoại đạo . Từ đầu đến cuối , mỗi câu đều là pháp môn tâm địa của Chư Phật ; mỗi câu có mỗi công dụng ; mỗi chữ có mỗi điểm thâm áo vi diệu ; tất cả đều có thần lực không thể nghĩ bàn. Chỉ cần tụng niệm một câu, một chữ, một hội ( một đệ ) hoặc toàn bài Chú cũng đều khiến cho trời rung đất chuyển, quỷ thần khóc, yêu ma lánh xa, ly mị độn hình. Ánh hào quang trên đảnh nhục kế của Đức Phật biểu thị cho thần lực của Thần Chú, tức là có khả năng phá trừ tất cả màn đêm tăm tối và khiến cho hành giả thành tựu tất cả công đức lành .Nếu thọ trì Thần Chú nầy thì tương lai nhất định sẽ thành Phật, chứng đắc quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nếu thường trì tụng Thần Chú nầy thì sẽ tiểu trừ nghiệp chướng trong bao đời tiền kiếp. Đó là diệu dụng của Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm.
Tâm chú Lăng Nghiêm
Tuy giảng nhiều năm, nhưng vẫn không thể giảng hết những điểm hay của Thần Chú nầy. Tất cả mười phương Chư Phật đều xuất sanh từ thần Chú nầy, nên có thể gọi thần Chú Lăng Nghiêm là mẹ của Chư Phật. Mười phương các Đức Như Lai đều nương thần Chú nầy mà thành tựu đạo vô thuợng chánh đẳng chánh giác. Các Ngài ứng thân nhiều như số hạt bụi của các cõi nước để chuyển bánh xe pháp, giáo hóa chúng sinh, thọ ký cho chúng sinh trong mười phương, cứu độ chúng sinh thoát khổ, khiến cho tất cả chúng sinh đại,tiểu, quyền thừa đều được giải thoát; tất cả các Ngài đều nương vào oai lực của tâm Chú Lăng Nghiêm. Nếu muốn chứng đắc quả A La Hán thì phải tụng thần Chú nầy thì mới tránh khỏi ma sự.
Trong thời mạt pháp,nếu có ai học thuộc thần Chú nầy hay khuyến khích người khác học thuộc thì lửa không thể đốt chết người đó và nước không thể làm họ chết đuối. Dù thuốc độc nặng nhẹ đến đâu cũng không thể hại được họ.Đối với những ai thường trì tụng thần Chú nầy thì thuốc độc sẽ biến thành cam lồ khi vừa vào miệng. Người trì tụng thần Chú nầy sẽ không tái sanh vào những chỗ xấu xa; họ có muốn cũng không được. Tại sao? Vì thần Chú này giữ họ lại mà không cho đi đến những nơi đó. Nếu chưa bao giờ tích tụ được công đức , khi tụng thần Chú nầy thì mười phương chư Phật sẽ gia hộ công đức lành cho quý vị, đó là do thường trì tụng thần Chú nầy vậy. Ngoài ra, nếu thường trì tụng thì quý vị sẽ luôn luôn được sinh vào thời Chư Phật ra đời cũng như huân tu dưới sự giao huấn của các Ngài.
Giả thử tâm niệm thường bị tán loạn không thể chuyên nhất để phát sinh định lực, nhưng nếu tâm nghĩ về thần Chú Lăng Nghiêm, rồi dùng miệng để trì tụng thì Bồ Tát Kim Cang Tạng Vương sẽ âm thầm hộ trì quý vị cho đến khi tâm tán loạn tiêu dần và phát sinh định lực. Các Ngài sẽ âm thầm hỗ trợ cho quý vị khai mở trí huệ và chuyển tâm nhất ý đến độ thấu rõ hết tất cả sự việc trong 84.000 hằng hà sa số kiếp.
Kinh Lăng Nghiêm là kinh được dùng như kính chiếu yêu quỉ trong Phật giáo. Tất cả các loại thiên ma, ngoại đạo và các loại ma quỉ ly, mỵ, vọng lượng đều tự phơi bày chân tướng khi gặp phải Kinh Lăng Nghiêm. Chúng không có cách nào che dấu và cũng không có chỗ để chạy trốn. Trong quá khứ, khi Đại sư Trí Giả nghe thấy có sự hiện hữu của kinh này, ngài hướng về nước Ấn Độ lễ lạy suốt mười tám năm. Trong mười tám năm đó, ngài dùng tâm chân thành tột bực để cầu nguyện Kinh này sẽ được truyền bá đến Trung Hoa.
Trong tất cả những vị cao tăng thạc đức trong quá khứ, tất cả những tăng ni trí tuệ cao thượng, không có một vị nào mà không ca tụng kinh Lăng Nghiêm. Vi vậy, hễ Kinh Lăng Nghiêm còn tồn tại trên thế gian này, thì Phât Pháp còn tồn tại. Nếu Kinh Lăng Nghiêm bị hủy diệt thì Phật Pháp cũng sẽ bị hủy diệt theo. Phật Pháp sẽ suy tàn như thế nào ? Đó là khi Kinh Lăng Nghiêm bắt đầu bị hủy diệt. Ai sẽ hủy diệt Kinh Lăng Nghiêm ? Những thiên ma ngoại đạo sẽ hủy diệt kinh Lăng Nghiêm. Chúng thấy kinh Lăng Nghiêm giống như cây đinh trong mắt của chúng, như cây gai nhọn trong thớ thịt của chúng. Chúng không thể ngồi yên, hay đứng yên, mà sẽ tìm cách tạo ra một tà thuyết mới cho rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả tạo.
Là Phật tử, chúng ta nên nhận biết đạo lý chân thật. Mỗi chữ giáo pháp trong kinh Lăng Nghiêm đều là tuyệt đối chân thật, không một chữ nào không diễn bày chân lý. Vì vậy hiện tại chúng ta đang nghiên cúu phần Năm Mươi Ấm Ma, chúng ta càng nên nhận thức kinh Lăng Nghiêm quan trọng như thế nào. Kinh Lăng Nghiêm là kinh mà các loại tà ma, quỉ, yêu tinh sợ nhất.
Hòa Thượng Hư Vân sống đến 120 tuổi, và trong suốt cuộc đời của mình, ngài đã không viết chú giải cho bất cứ một kinh nào khác ngoại trừ kinh Lăng Nghiêm. Ngài đặc biệt cẩn thận giữ gìn những bản thảo chú giải của mình về kinh Lăng Nghiêm. Ngài giữ gìn những bản thảo này qua nhiều thập niên, nhưng sau đó chúng đã bị mất trong biến cố Vân Môn. Đây là việc khiến Hòa Thượng Hư Vân ân hận nhất trong đời. Ngài đề nghị rằng, là người xuất gia, chúng ta nên nghiên cứu học kinh Lăng Nghiêm cho đến mức mà chúng ta có thể tụng đọc thuộc lòng Kinh từ đầu đến cuối cũng như từ cuối lên đầu, xuôi ngược đều thuộc. Đó là đề nghị của ngài. Tôi biết rằng, suốt cuộc đời ngài, Hòa Thượng Hư Vân đã xem Kinh Lăng Nghiêm đặc biệt quan trọng.
Khi có người cho Hòa Thượng Hư Vân biết rằng có những người cho Kinh Lăng Nghiêm là giả tạo, ngài giảng giải rằng sự suy đồi của Phật pháp xảy ra chỉ vì những người này đã tìm cách cho rằng mắt cá là ngọc trai, làm mê lầm người khác khiến họ không phân biệt được đúng sai. Họ làm cho chúng sanh mù quáng đến nỗi không còn nhận thức được Phật pháp. Họ cho thật là giả, cho giả là thật. Hãy nhìn xem: người này viết một quyển sách và mọi người đều đọc, người kia viết một quyển sách và mọi người cũng đều đọc. Còn Kinh thật do chính Phật nói thì nằm trên kệ sách, không ai từng đọc đến. Từ điều này, chúng ta có thể thấy rằng nghiệp của chúng sanh rất nặng. Nếu họ nghe điều tà tri tà kiến, thì sẵn sàng tin liền. Còn nếu quý vị nói Pháp dựa trên chánh tri chánh kiến, thì họ sẽ không tin theo. Tại sao họ không tin theo ? Vì họ không có đủ thiện căn và nền tảng tốt. Đó là lý do vì sao họ có sự nghi ngờ đối với Chánh pháp. Họ luôn hoài nghi và không muốn tin.
Ở đây tại Vạn Phật Thành, chúng ta sẽ lập Lăng Nghiêm Đàn Tràng, như thế sẽ là nơi lý tưởng cho những ai muốn phát tâm đọc tụng Kinh Lăng Nhiêm mỗi ngày một hay hai tiếng đồng hồ. Quý vị có thể học Kinh Lăng Nghiêm hằng ngày như đang học ở trường học, và học thuộc lòng để quý vị có thể tụng từ trí nhớ. Nếu quý vị có thể tụng từ trí nhớ Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa hay ngay cả Kinh Hoa Nghiêm, thì đó là điều tốt nhất. Nếu có người nào có thể thuộc lòng Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa và Kinh Hoa Nghiêm, thì điều này có nghĩa rằng vẫn còn Chánh pháp tồn tại trên thế gian này. Vì vậy, tại một nơi kỳ diệu như Vạn Phật Thành, mọi người nên phát tâm Bồ đề làm những việc này. Không phải rằng chúng ta tranh nhau, nhưng chúng ta nên trở thành kiệt xuất, vượt lên đám đông, để làm những việc này.
Trong quá khứ, tôi có một uớc vọng: Tôi muốn có thể tụng thuộc lòng kinh Lăng Nghiêm và kinh Pháp Hoa. Ở Hồng Kông, có một môn đệ tên Quả Nhất (Hằng Định) có thể tụng thuộc lòng Kinh Lăng Nghiêm. Tôi dạy ông ta học Kinh Pháp Hoa, nhưng cuối cùng có lẽ ông ta vẫn chưa học thuộc hết, đó là điều rất đáng tiếc. Ở một nơi tốt đẹp như chúng ta đang có ở đây, tất cả quý vị nên phát đại quyết tâm học kinh Phật và giới luật – Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Tứ Phần Luật và Kinh Phạm Võng – cho đến quý vị thuộc lòng. Đó là điều tốt đẹp nhất vì lúc đó Chánh Pháp chắc chắn sẽ còn tồn tại rất lâu trên thế gian này .
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Sự nhiệm màu trì chú Lăng Nghiêm
Mùa xuân năm 1995 tôi về nhà bà nội ở làng Minh Đức, Cao Hùng để ăn tết.
Do thuở sinh thời ông nội của tôi là Thiếu tướng Hải quân, nên được quân đội cấp cho một căn nhà rất lớn, bên cạnh còn có thêm phòng cho lính ở; tôi và chồng mỗi lần về Cao Hùng đều ở nơi căn phòng dành cho lính cần vụ.
Khoảng 5 giờ chiều ngày mồng một tết năm 95, tôi ở trong phòng một mình, đang chuẩn bị công phu tối.
Vừa mới tụng bài Tán Hương, thì tôi bỗng cảm thấy lạnh buốt da đầu; do tôi từng bị ma ám rồi, nên kịp thời nhận ra tín hiệu tà đang xâm nhập này ngay) thế là tôi lập tức chuyển qua tụng Chú Lăng Nghiêm. Tôi vừa tụng “Nam Mô Tát Đát Tha, Tô Già Đa Da, A La Ha Đế, Tam Miệu Tam Bồ Đà Tả, Nam Mô Tát Đát Tha…”, (nghĩa là mới đến chữ thứ 24) thì cảm thấy có một luồng hơi nóng từ trên đỉnh đầu lan tỏa xuống gót chân và không còn thấy lạnh nữa, da đầu cũng hết tê, tôi thầm biết là mình đang được chư Phật Bồ Tát gia hộ, lòng vô cùng cảm kích, xúc động đến nói không nên lời, nhờ vậy đêm đó tôi được bình an, mới dám tắt đèn mà ngủ.
Nhớ lại năm 1983 lúc tôi đến Cao Hùng, do mới bắt đầu học Phật, nên tôi chưa biết tụng kinh hay niệm chú gì, thành ra ban đêm lòng luôn sợ hãi, cứ bật đèn sáng suốt đêm khi ngủ, nhưng không thể nào chợp mắt được. May nhờ tôi có đem đĩa CD tụng Chú Đại Bi, Chú Vãng Sanh theo, nên tôi bật máy tụng chú lên nghe để ngủ an lành qua đêm.
Có lần tôi mộng thấy mình bị một vong nam mặt cháy xám đen, bộ dạng rất hung dữ rượt đuổi… lúc đó tôi vội tụng Chú Lăng Nghiêm, thì thấy xuất hiện một luồng ánh sáng màu trắng bên mình, chia cách tôi với con ma, khiến nó không thể quấy phá được tôi.
Còn một lần khác nữa, tôi mộng thấy mình đang ở trong một ngôi nhà ma quái nhưng vô phương chạy thoát vì bên ngoài trời tối đen. Khi tôi tụng Chú Lăng Nghiêm đến Hội thứ ba, thì thấy bên ngoài trời sáng dần, nhờ vậy mà tôi ra khỏi ngôi nhà ma quái đó và chuẩn bị đón xe về nhà. Cuối cùng, tôi mộng thấy mình dẫn theo một bé gái, còn thầm biết là giữa chúng tôi có quan hệ mẹ con.
Sau khi thức dậy, tôi âm thầm khấn nguyện cầu chư Phật gia hộ cho đứa bé gái đó đi đầu thai nơi khác, bởi vì tôi đang khát khao có được cơ hội tu hành nghiêm túc, nên chẳng muốn sanh con.
Thế là liên tục suốt một tuần, tôi tụng Chú Lăng Nghiêm hồi hướng cho đứa bé đó, bảy ngày sau tôi lại nằm mơ, thấy hình dạng bé gái đó đã biến thành trong suốt, rồi tiêu tan mất.
Kinh Lăng Nghiêm nói: Chú Lăng Nghiêm có uy lực không thể nghĩ bàn, quả nhiên không sai!
Tôi rất tin tưởng nên đã lập định thời khóa tụng niệm Chú Lăng Nghiêm và lễ bái Kinh hằng ngày, hy vọng chư Phật, Bồ Tát gia bị cho mình đạo tâm kiên cố, tinh tấn dụng công, sớm đoạn trừ được tập khí vô minh chóng chứng Phật quả.
Vương Tuyên Pháp / Hạnh Đoan lược dịch
Xem thêm: Phim Kinh Thủ Lăng Nghiêm | Kinh Lăng Nghiêm – Thầy Thích Trí Thoát | Tụng Kinh Lăng Nghiêm